TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG
LỰC LƯỢNG THANH NIÊN XUNG PHONG
(15/7/1950 - 15/7/2020)
I. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA LỰC LƯỢNG THANH NIÊN XUNG PHONG
1. Sự ra đời và trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1950 - 1954)
Với tầm nhìn chiến lược về vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, cách đây 70 năm, ngày 15/7/1950, Bác Hồ đã chỉ đạo Đảng đoàn Ban Thanh vận Trung ương và Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam tổ chức đội thanh niên tập trung dài ngày để phục vụ kháng chiến và kiến quốc, khi kháng chiến thành công, lấy tên là: “Đội Thanh niên xung phong công tác”. Quyết định lịch sử ấy đã khai sinh ra Đội Thanh niên xung phong (TNXP) công tác Trung ương đầu tiên tại Núi Hồng, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, gồm 03 Liên phân đội với 225 cán bộ, đội viên do đồng chí Vương Bích Vượng - ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn làm Đội trưởng. Đầu tháng 8-1950, Đội TNXP công tác Trung ương xuất quân phục vụ Chiến dịch Biên giới, đã lập công xuất sắc, được Bác Hồ gửi thư khen, được Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tuyên dương: “Đội TNXP công tác đã nêu cao tinh thần tích cực xung phong, triệt để tuân theo kỷ luật chiến trường, tổ chức chặt chẽ, gương mẫu trong mọi nhiệm vụ…”
Ngày 20-3-1951, Bác Hồ đến thăm đơn vị Liên phân đội TNXP 312 làm nhiệm vụ tại cầu Nà Cù, thôn Nà Cù, xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn và đọc tặng 4 câu thơ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
4 câu thơ của Bác là lời giáo huấn, là phương hướng tư tưởng và hành động cho lực lượng TNXP và thế hệ trẻ Việt Nam.
Từ kinh nghiệm hoạt động của Đội TNXP công tác Trung ương, Trung ương Đoàn đã thống nhất với Tổng Cục cung cấp tăng cường phát triển các Đội TNXP ở các địa phương để phục vụ kháng chiến. Chỉ trong một thời gian ngắn ở các địa phương đã tổ chức các Đội TNXP công tác ở khu, tỉnh, thành, huyện, xã phục vụ công tác kháng chiến ở địa phương,
Đội TNXP công tác Trung ương gồm 20 Liên phân đội với gần 3.000 cán bộ, đội viên (đến tháng 2/1953) đã phối hợp với các đơn vị TNXP địa phương hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến đấu trong các chiến dịch: Biên giới (Thu Đông 1950); Trần Hưng Đạo - Trung du (Đông Xuân 1950 - 1951), Hoàng Hoa Thám - Đông Bắc (Mùa Xuân 1951), Quang Trung - Hà Nam Ninh (Xuân Hè 1951) Hòa Bình (tháng 10 - 12/1951), Tây Bắc (Thu Đông 1952), Thượng Lào (1 - 6/1953).
Bước vào Đông Xuân 1953-1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn mới. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ “Kháng chiến càng tiến tới, công việc ngày càng nhiều, chúng ta cần củng cố và phát triển Đội TNXP để đảm bảo thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này”. Ngày 26-3-1953, Đội TNXP kiểu mẫu được thành lập để cùng Đội TNXP công tác Trung ương thực hiện nhiệm vụ trên. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, cuối tháng 12-1953, hai Đội TNXP công tác Trung ương và Đội TNXP kiểu mẫu hợp nhất, thành lập Đoàn TNXP Trung ương (Đoàn XP), do đồng chí Vũ Kỳ - thư ký của Bác làm Đoàn trưởng. Đoàn XP được biên chế thành 04 Đội 34, 36, 38 và 40 với trên 10.000 cán bộ, đội viên. Đến 3/1954 Đoàn XP bổ sung thêm lực lượng, biên chế thành 05 Đội: 34, 36, 38, 40, 42 với trên 18.000 cán bộ, đội viên. Ở Liên khu V hàng vạn thanh niên các tỉnh đồng bằng ven biển đã hăng hái tham gia nhập TNXP, Tổng đội TNXP 204 được thành lập gồm hơn 4.000 cán bộ đội viên đã tham gia phục vụ Chiến dịch Bắc Tây Nguyên và sát cánh cùng bộ đội giải phóng thị xã Kon Tum.
Ngày 6 -12 - 1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đoàn TNXP Trung ương được giao nhiệm vụ tập trung toàn lực lượng phục vụ Chiến dịch: Đội 36 (2.500 cán bộ, hội viên) làm nhiệm vụ phục vụ và tham gia bảo vệ các cơ quan Trung ương ở An toàn khu Việt Bắc (ATK); Đội 38 và 42 làm nhiệm vụ cơ động phục vụ chiến dịch trên địa bàn chiến khu Việt Bắc và các Chiến dịch khi có yêu cầu; Đội 34 và 40, với trên 16.000 cán bộ, đội viên làm nhiệm vụ vận tải lương thực, vũ khí, đảm bảo giao thông thông suốt các tuyến đường 6, 41; trên các tọa độ lửa như: Đèo Pha Đin, Ngã ba Cò Nòi, Cầu Tà Vài,… Lực lượng TNXP đã mở hàng chục km đường, vận chuyển hàng ngàn tấn quân trang, cứu được nhiều xe đạn pháo khi bị máy bay địch vây đánh, rà phá trên 1.000 quả bom mìn, cứu thương và vận chuyển hàng trăm thương binh, bộ đội hy sinh trên chiến trường; khi chiến dịch diễn ra quyết liệt đã có 8.000 TNXP chuyển sang bổ sung cho quân đội; tại mặt trận Điện Biên Phủ đã có trên 100 cán bộ, chiến sĩ TNXP anh dũng hy sinh. Vượt qua nhiều gian lao, thử thách, Đoàn XP và các đơn vị TNXP địa phương đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần bảo vệ an toàn ATK, tham gia xây dựng các tuyến đường huyết mạch và vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến đấu. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, Lực lượng TNXP đã được Bác Hồ tặng cờ thi đua mang dòng chữ “Dũng cảm, lập công suất sắc”; được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 60 Huân chương các loại cho các tập thể và cá nhân, hàng nghìn cán bộ đội viên được tặng bằng khen và giấy khen của các ngành các cấp. Năm 2009, Lực lượng TNXP tham gia chiến dịch Điên Biên Phủ và năm 2014, có 4 cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tổng đội TNXP 204 Liên khu 5 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu trên chiến trường đường 19, Chiến dịch An Khê, Chiến dịch Bắc Tây Nguyên; đã có 2 chi đội, 23 chiến sĩ lập công xuất sắc được Bộ tư lệnh mặt trận phong tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua và Huân chương Chiến công.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có gần 5 vạn cán bô, đội viên TNXP hoạt động ngày đêm, sát cánh cùng các đơn vị Lực lượng vũ trang, giao thông vận tải, dân công, đồng bào các dân tộc Việt Bắc và Tây Bắc hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ quan trọng: Phục vụ chiến đấu, tham gia chiến đấu, mở đường, đảm bảo giao thông, rà phá bom mìn, vận chuyển và chăm sóc thương bệnh binh, mai táng liệt sĩ, … góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Đã có trên 200 cán bộ, đội viên anh dũng hy sinh; nhiều tập thể, cá nhân TNXP đạt thành tích tiêu biểu xuất sắc được khen thưởng, trong đó có: 320 chiến sĩ thi đua cấp đơn vị, 25 chiến sĩ thi đua và 4 đơn vị khá nhất toàn Đoàn TNXP, được Nhà nước tặng thưởng 3 Huân chương Kháng chiến hạng Hai, 2 Huân chương Kháng chiến hạng Ba, 10 Huân chương Lao động hạng Ba, 25 Bằng khen và 6 cờ thi đua khá nhất của Trung ương Đoàn, Bộ Giao thông công chính tặng cờ “Thi đua khá nhất”. Có 01 tập thể và 04 cá nhân Được Đảng, Nhà nước phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
2. Thanh niên xung phong tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây dựng XHCN miền Bắc 1955 - 1964.
Ngay sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, thực hiện sự chỉ đạo của Bác Hồ, Đảng, Nhà nước và Đoàn thanh niên, Lực lượng Thanh niên xung phong được tổ chức lại, chuyển sang làm nhiệm vụ mới. Gần 10 vạn cán bộ, đội viên Thanh niên xung phong (TNXP chống Pháp và TNXP xây dựng CNXH) đã có mặt ở những nơi khó khăn gian khổ nhất, lao động quên mình trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế và thi đua tình nguyện hoàn thành vượt mức kế hoạch trong lao động sản xuất, công tác và học tập, cùng tuổi trẻ cả nước xây dựng hàng trăm công trình kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn 1954 - 1957, Lực lượng TNXP chống Pháp (Các Đội TNXP 34, 36, 38, 40, 42, 48, 56 thuộc Đoàn TNXP Trung ương và các đơn vị TNXP địa phương) được Đảng, Bác Hồ, Chính phủ giao nhiệm vụ thu dọn chiến trường; mở đường chiến lược Lai Châu - Ma Lù Thàng (biên giới Việt - Trung) và khai thông mở dòng Nậm Na; tiếp quản Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng; khôi phục các tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Nam Định - Thanh Hóa; tham gia xây dựng các công trình công nghiệp: Nhà máy Chè Phú Thọ, Gỗ Cầu Đuống, Diêm Thống nhất, Cá hộp Hải Phòng, Supe phốt phát Lâm Thao; Đường Đồng Đăng (Lạng Sơn) - Gia Bẩy (Thái Nguyên)…
Bước vào giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc 1958 - 1964, thực hiện Chỉ thị số 01/CT.TNLĐ/TW ngày 25 tháng 02 năm 1959 của Ban Bí thư Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam các Đội TNXP xây dựng XHCN đã được thành lập để làm nhiệm vụ đảm nhận xây dựng các công trình kinh tế lấy tên là Công trình thanh niên như: xây dựng Nhà máy Cơ khí trung quy mô; lò cao Khu Gang thép Thái Nguyên; Thủy điện Thác Bà; các tuyến đường sắt: Đông Anh - Thái Nguyên, Thanh Hóa - Vinh; mở các tuyến đường giao thông: 12B Hòa Bình, Hà Giang - Đồng Văn (Đường hạnh phúc); Đường 426B; Công trình Đại thủy nông Nậm Rốm Điện Biên …
Lực lượng TNXP tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế và xây dựng XHCN giai đoạn 1955 - 1964, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần kiến thiết, xây dựng các công trình cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng của CNXH Miền Bắc, làm nên một hậu phương lớn vững chắc đảm bảo sức người, sức của phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước. Đã có 87 cán bộ, đội viên TNXP hy sinh trên các công trường mở đường: Lai Châu - Ma Lù Thàng (67 người), Hà Giang - Đồng Văn (14 người), Đường sắt Hà Nội - Mục Năm Quan (6 người). Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Lực lượng TNXP xây dựng “Đường hạnh phúc Hà Giang” và Công trình đại thủy nông Nậm Rốm Điện Biên; Huân chương Lao động hạng Nhì cho Lực lượng TNXP Công trường 12B Hòa Bình; nhiều tập thể, cá nhân đã được Chính phủ, các ngành và Trung ương Đoàn khen thưởng.
3. Thanh niên xung phong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965 - 1975)
Khi đế quốc Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, “leo thang” đánh phá miền Bắc, cả nước sục sôi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực hiện lời hiệu triệu của Bác Hồ, Chỉ thị số 71/TTg-CN ngày 21/6/1965 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức các Đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước phục vụ công tác giao thông vận tải và Nghị quyết Đại hội Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng miền Nam lần thứ nhất ngày 26/3/1965 về tổ chức Lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, từ phong trào “Ba sẵn sàng” (ở Miền Bắc) và “Năm xung phong” (ở Miền Nam) , đã có trên 28 vạn nam nữ thanh niên tình nguyện tham gia Lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tiếp bước cha anh lên đường với quyết tâm “Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “ở đâu chiến trường cần là thanh niên xung phong có mặt”, “ở đâu có giặc là thanh niên xung phong xuất quân”.
Ở Miền Bắc và trên mặt trận đường Trường Sơn, với tinh thần “Ba sẵn sàng”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, thực hiện Chỉ thị số 71/TTg-CN ngày 21/6/1965 của Thủ tướng Chính phủ, trong 3 nhiệm kỳ (Nhiệm kỳ I từ 1965 - 1968, Nhiệm kỳ II từ 1968 - 1972, Nhiệm kỳ III từ 1972 - 1975), đã có 143.391 cán bộ, đội viên TNXP của 24 tỉnh, thành phố tình nguyện gia nhập 165 Đội và 75 đại đội độc lập TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung. Một số địa phương như Bắc Thái, Hà Bắc, Thái Bình, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình…cũng thành lập đơn vị TNXP chống Mỹ cứu nước phục vụ sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và bổ sung quân cho các Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước của Trung ương khi cần thiết. Các Đội TNXP chống Mỹ cứu nước do Trung ương Đoàn thanh niên lao động Việt Nam tổ chức thành lập theo chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ, sau đó bàn giao cho Bộ Quốc phòng, Bộ giao thông vận tải, Bộ Lâm nghiệp, một số cơ quan Trung ương và UBND các tỉnh, thành phố quản lý. Ngoài 24 Đội và 39 đại đội phục vụ quốc phòng, 6 đội hoạt động trong ngành lâm nghiệp và 2 đơn vị phục vụ cơ quan Văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ, 133 đội và 36 đại đội độc lập còn lại phục vụ trong ngành giao thông vận tải (trực thuộc Bộ Giao thông vận tải và các Ty Giao thông vận tải).
Với tinh thần “Ba sẵn sàng”, Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước Miền Bắc đã có mặt trên khắp mọi tuyến đường ra trận, hăng hái chiến đấu, lao động sáng tạo, học tập, rèn luyện, sẵn sàng hy sinh anh dũng hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ: mở đường chiến lược; vận chuyển hậu cần; trực chiến, chốt giữ những trọng điểm địch đánh phá ác liệt, san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường, tháo gỡ bom mìn, hướng dẫn xe đi và chiến đấu đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt trong mọi tình huống, góp phần quan trọng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
Trong 10 năm, lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã đảm nhận 16 loại công việc khác nhau, chủ yếu tập trung vào 3 ngành Giao thông vận tải, Quốc phòng và Lâm nghiệp. Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước Miền Bắc đã chốt giữ hầu hết các trọng điểm ác liệt ngày đêm địch đánh phá như: Gao Lưu Xá, Ga Gôi, Hàm Rồng, Truông Bồn, Cầu Cấm, Ngã ba Đồng Lộc, Khe Ve, Bãi Dinh, Cổng Trời - Mụ Dạ, 050, Đèo Đá Đẽo, Phà Xuân Sơn, Phà Long Đại, Phà Quán Hầu Cua chữ A, Ngầm Ta Lê, Đèo Phu La Nhic…và hàng 100 trọng điểm khác, mở đường mới, đảm bảo giao thông thông suốt trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông từ bắc vào nam như: Đường sắt Hà Nội - Vinh, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Quán Triều, Hà Nội - Lào Cai. Các tuyến đường bộ: đường bộ 1A qua các tỉnh; đường 15 (Hòa Bình - Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh - Quảng Bình); Đường 20, đường 10, đường 128, đường 15B, 15C, , , đường 18, đường 16 (trên địa bàn Quảng bình - đông - tây trường Sơn - Lào); đường 8, đường 12A, 12B, đường 21, 22A, 22B; đường 14 (đường 9 - đèo Hải Vân - Quảng Nam Đà Nẵng), đường 7 (Nghệ An); các tuyến đường bộ tỉnh lộ, đường sông các tỉnh miền Bắc và hàng trăm đường vòng, đường tránh qua sông, suối, cầu, phà, qua trọng điểm đánh phá của địch1.
Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước Miền Bắc đã mở 102 con đường chiến lược, với tổng chiều dài 4.130 km, trên 5 tuyến trục dọc, 21 tuyến trục ngang hệ thống đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh; vận chuyển trên 10 vạn tấn vũ khí, đạn, lương thực; trực chiến chốt giữ gần 3.000 trọng điểm chiến lược giao thông quan trọng địch thường xuyên đánh phá ác liệt, san lấp hàng vạn hố bom, phá gỡ trên 10.000 bom địch các loại, bắn rơi 15 máy bay Mỹ, bắt sống 13 phi công Mỹ và gần 1.000 tên địch, phá hỏng 20 xe tăng, xe bọc thép, phục vụ gần 1.000 trận đánh,…bổ sung sang quân đội 16.000 người, 15.000 người được kết nạp vào Đảng khi làm nhiệm vụ, có 52 Dũng sĩ diệt Mỹ, 1.432 Dũng sĩ quyết thắng trên các chiến trường.
Với những thành tích xuất sắc trên, Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước Miền Bắc đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng các danh hiệu cáo quý: 25 tập thể và 12 cá nhân Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng Lao động; 01 Huân chương Độc lập hạng Nhất và 372 Huân chương, Huy chương các loại; hàng ngàn Bằng khen, Giấy khen cho các tập thể và cán bộ, đội viên TNXP có thành tích xuất sắc.
- Trên mặt trận chiến trường Miền Nam, Ngày 20/4/1965 đơn vị TNXP giải phóng đầu tiên được thành lập; với tinh thần “Năm xung phong”, Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam đã anh dũng kiên cường cùng bộ đội trên các chiến trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến dấu, vận tải vũ khí, đội đạn dược, lương thực, vận chuyển thương binh, rà phá bom mìn, bước đầu có 108 cán bộ, đội viên, sau phát triển lên gần 5.000 người, phục vụ các Sư đoàn bộ đội chủ lực và hậu cần cho Miền Đông Nam Bộ, đồng thời thành lập đơn vị TNXP tập trung với gần 5.000 người, phục vụ bộ đội ở Khu, tỉnh; nhiều nơi phát triển TNXP huyện, xã thành (Thanh niên xung phong cơ sở). Dần dần lực lượng hùng hậu lên đến 4,5 vạn nam, nữ, cán bộ, đội viên tham gia phục vụ các chiến trường. TNXP đã kề vai sát cánh cùng bộ đội trên các địa bàn trọng điểm ác liệt như: Miền Đông Nam Bộ, Miền Tây Nam Bộ, , Tây Ninh, đường 1C; chiến dịch Phước Long, Sông Bé; Núi Thành (Quảng Nam), chiến dịch Quảng Đà, Liên Khu V. Riêng tuyến đường 1C suốt trong 9 năm, Liên đội I đã gan dạ, dũng cảm chiến đấu vượt qua bom đạn dể vận chuyển 10.000 tấn quân trang, vũ khí; tiếp nhận về Đất Mũi 1 vạn quân; phối hợp với quân chủ lực bắn rơi hàng 100 máy bay, diệt 50 xe tăng địch, diệt hàng ngàn tên Mỹ, ngụy; giữ vững huyết mạch từ Quân khu 9 về Trung ương cục Miền Nam.
Lực lượng TNXP giải phóng miền Nam đã phục vụ 641 trận đánh, trực tiếp chiến đấu trên 40 trận, bắt sống 856 tên địch, trong đó 286 lính Mỹ, bắn rơi 5 máy bay Mỹ, phá hỏng 20 xe tăng; làm và sửa chữa 29 km đường ô tô, 185 km đường xe thồ 125m cầu, đào 1135 km hầm hào, xây dựng 08 bệnh viện dã chiến và 272 kho quân dụng; vận chuyển 23.117 tấn hàng, 9.538 thương binh và đưa 18.000 lượt bộ đội qua sông; chăm sóc nuôi dưỡng 2.077 thương binh,…….cung cấp cho lực lượng vũ trang 550 cán bộ chiến sĩ và các cơ quan Trung ương cục 160 người.
Với những thành tích xuất sắc, Lực lượng TNXP giải phóng miền Nam (tập thể và cá nhân) từ 1965 đến 1970 đã được tặng thưởng 01 Huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng Nhất, 03 Huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng Ba, 01 Huân chương Quân công hạng Ba, 10 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, 50 Huân chương Giải phóng hạng Hai, 117 Huân chương Giải phóng hạng Ba, 26 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 152 Huy chương Giải phóng hạng Nhất, 207 Huy chương Giải phóng hạng Hai, 54 dũng sĩ các loại, hàng ngàn bằng khen, giấy khen; Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam (năm 2009) và 08 tập thể, 15 cá nhân được Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
- Trên chiến trường giúp nước bạn Lào: Tổng đội TNXP 572, gồm Các Đội: N253, N255, N257, N259 N261,với 4.000 cán bộ, đội viên nhận nhiệm vụ sang giúp bạn Lào mở rộng và nâng cấp tuyến đường chiến lược 217B dài 64 km từ căn cứ địa cách mạng Viêng Xay đến biên giới Việt Nam, 10 km hệ thống giao thông nội thị Viêng Xay1 và xây dựng tuyến đường dài 20 km từ Mường Liệt đi Xầm Nưa. Đảng, Nhà nước Lào đã trao tặng Đội TNXP 253 Huân chương Huân chương Lao động hạng Nhất và 341 Huân chương Lao động hạng nhất, Nhì, Ba cho tập thể và cá Đội TNXP 253- Tổng đội TNXP 572, Ban Xây dựng 64, Bộ Giao thông vận tải.
Lực lượng Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy truyền thống của các thế hệ Thanh niên xung phong đi trước lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có 37 tập thể và 36 cá nhân Thanh niên xung phong được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng và nhiều tập thể, cá nhân được tặng các danh hiệu thi đua cao quý khác. Sau khi kết thúc chiến tranh có 28.000 TNXP được chuyển sang công tác, học tập, làm việc ở các ngành, địa phương, nhiều người đã trở thành cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
4. Thanh niên xung phong tham gia chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế (1975 - 1988)
Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc, Thanh niên xung phong chuyển sang thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng phát triển kinh tế. Nhưng tháng 5 năm 1975, nhà cầm quyền Pônpốt Campuchia phát động cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam và vào tháng 02 năm 1979 nhà cầm quyền Trung Quốc xua quân đánh chiếm các tỉnh biên giới phía Bắc của Tổ quốc, chúng đốt phá làng mạc, phố phường, giết hại giã man dân thường vô tội, đất nước chưa lành vết thương chiến tranh, quân dân ta lại bước vào cuộc chiến cam go ác liệt kéo dài. Trên 5 vạn nam nữ TNXP cả nước đã tiếp bước cha anh lên đường phục vụ cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương Tổ quốc. Trong đã có gần 13 ngàn TNXP tham gia phục vụ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia (5/1975 - 8/1988) và trên 36 ngàn TNXP phục vụ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (2/1979 - 12/1988).
Lực lượng TNXP tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ: phục vụ chiến đấu và tham gia chiến đấu trên các chiến trường; xây dựng và củng cố chính quyền, các đoàn thể quân chúng; xây dựng phòng tuyến phòng thủ; lao động sản xuất và bảo vệ, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giúp nhân dân ổn định sản xuát, cuộc sống, giữ gìn trật tự, an ninh xã hội các địa phương trên địa bàn biên giới và nước Campuchia, điển hình là:
Lực lượng TNXP thành phố Hồ Chí Minh, đã huy động trên10.000 lượt TNXP tham gia phục vụ chiến đấu và chiến đấu trên các phòng tuyến, vừa làm nhiệm vụ hậu cần, công binh, tải thương vừa trực tiếp chiến đấu chống địch bao vây, phục kích. Trong đó, lực lượng thường trực luôn có mặt từ 3.000 đến 5.000 cán bộ đội viên tham gia đánh địch 96 trận; diệt 1.200 tên; bắt sống 208 tên; truy kích 159 lần; phá hủy 01 súng cối 60ly, 01 súng B40; thu 258 súng, 232 đạn B40, cối 60 ly và B41, 3 máy truyền tin và nhiều tài liệu quan trọng khác; các đơn vị thanh niên xung phong đã tham gia bốc xếp trên 01 triệu tấn hàng hóa; đào đắp 10.000m3 đất đá xây dựng các tuyến đường giao thông dài 521km; phát quang 340.000m2 rừng mở đường hành quân bộ; sửa chữa 1.283 km đường; bắc 86 cầu; làm 20 ngầm, 14 cống, 3 bến phà; bốc dỡ, vận chuyển trên 260.000 tấn hàng quân sự, chuyển hơn 2.700 thương binh, hiến 6.200 cc máu cứu đồng đội và nhân dân. Thanh niên xung phong đã phối hợp với các đơn vị bộ đội giúp chính quyền Campuchia xây dựng mới và sửa chữa 18 trường học, dọn dẹp về sinh, giữ vững an ninh trật tự 42 thành phố, thị trấn, 140 phum sóc; xây dựng và sửa chữa 512 km đường bộ, giúp đỡ 25.000 người dân Campuchia ổn định nơi ở, phát triển sản xuất; tổ chức học tập, cải tạo cho hàng nghìn binh lính quân Pônpốt giúp chính quyền và nhân dân Campuchia lật đổ chế độ Pônpốt, hồi sinh đất nước.
5. Thanh niên xung phong tham gia phát triển kinh tế - xã hội (từ 1976 đến nay):
Đại thắng mùa xuân năm 1975 mở ra một trang sử mới, Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước “Đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời dạy của Bác Hồ kính yêu. Tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang trong kháng chiến, thi đua thực hiện phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể” “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”, “5 xung kích, 4 đồng hành”, “Thanh niên tình nguyện, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Lực lượng TNXP các tỉnh, thành phố Miền Nam, Đông Nam bộ, Miền Trung, Tây Nguyên và Miền Bắc, với trên 20 vạn Thanh niên xung phong tình nguyện đã lên đường có mặt trên những tuyến đầu gian khó nhất, những nơi bị chiến tranh tàn phá, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, để thực hiện các nhiệm vụ khắc phục hậu quả sau chiến tranh, rà phá bom mìn, làm sạch môi trường, khai hoang, phục hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển giao thông, sắp xếp ổn định dân cư gắn với việc giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên và các đối tượng khác; làm nhiệm vụ công ích, giải quyết những vấn đề cấp bách khó khăn góp phần thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng xây dựng đất nước.
Trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), Tổ chức Thanh niên xung phong tiếp tục được củng cố, chuyển đổi mô hình hoạt động phù hợp với gai đoạn mới nhằm phát huy tinh thần xung phong tình nguyện của thanh niên tham gia xây dựng phát triển kinh tế - xã hội gắn với an ninh quốc phòng ở khu vực miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu vùng xa có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn; trật tự và các tai tệ nạn xã hội ở đô thị. Với hơn 15 vạn cán bộ, đội viên TNXP, đang là lực lượng xung kích thực hiện những nhiệm vụ chính trị khó khăn của các địa phương, xây dựng những mô hình phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả, góp phần khẳng định vai trò của Đoàn thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội như: Chương trình xoá nghèo bền vững, Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình giải quyết việc làm, Chương trình phát triển thuỷ sản, Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, Chương trình biển đông - hải đảo, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới - Đô thị văn minh” .v.v.. Lực lượng TNXP tham gia phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mở rộng và hoạt động có hiệu quả ở các tỉnh thuộc vùng khó khăn. Điển hình là:
Lực lượng TNXP Trung ương: Trong gần 20 năm qua, dưới sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đoàn, Ban chỉ huy Lực lượng TNXP Trung ương đã triển khai thực hiện 31 dự án xây dựng Làng thanh niên lập nghiệp và Khu kinh tế TNXP (ở dọc đường Hồ Chí Minh, biên giới phía Bắc, miền Trung, Tây nguyên và vùng đặc biệt khó khăn), 09 dự án phát triển thuỷ sản ở các xã nghèo ven biển; 3 Đề án xây dựng 1.365 cầu nông thôn tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc 41 tỉnh Đồng bằng Sông Cửu long, miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, góp phần thúc đẩy công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn; 06 dự án Đảo thanh niên tại đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) và Cồn Cỏ (Quảng Trị), Đảo Trần (Quảng Ninh), Cù Lao Xanh (Bình Định), Hòn Chuối (Cà Mau) và Thổ Chu (Kiên Giang). Các dự án do Lực lượng TNXP Trung ương đảm nhận được triển khai thực hiện có hiệu quả, góp phần quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, tạo động lực cho phát triển kinh tế ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đã có nhiều tập thể cá nhân được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Lực lượng Thanh niên xung phong thành phố Hồ Chí Minh: Trên 41 năm xây dựng và trưởng thành, hiện nay, Lực lượng TNXP Thành phố đang quản lý 8 phòng nghiệp vụ và tương đương, 5 đơn vị sự nghiệp, 1 Công ty TNHH một thành viên. Ngoài ra, còn góp vốn và tham gia quản lý điều hành 2 Công ty cổ phần…Các đơn vị trực thuộc Lực lượng TNXP Thành phố gồm: Trường Giáo dục đào tạo và Giải quyết việc làm số 1 tại Tuy Đức, tỉnh Đăk’Nông; Trường Giáo dục đào tạo và Giải quyết việc làm số 2 đóng tại Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; Trường Giáo dục đào tạo và Giải quyết việc làm số 3 đóng tại xã huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; Cơ sở xã hội Nhị Xuân đóng tại huyện Hóc Môn; Trung Tâm Giáo dục thường xuyên TNXP đóng tại xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn; Công ty TNHH một thành viên Dịch vụ công. Lực lượng TNXP thành phố Hồ Chí Minh đã 2 lần được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao Động”; 5 Huân chương độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba; 12 Huân chương Lao động hạng Hai; 81 Huân chương Lao động hạng Ba; 3 Chiến sĩ thi đua toàn quốc; 285 Bằng khen của Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ; 26 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; 96 Huy hiệu Dũng sĩ giữ nước; 112 Huy chương của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản; 21 Huy chương của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; 3 Cờ Thi đua của Chính phủ; 91 Cờ thi đua xuất sắc của Thành phố; 6 Cờ Thi đua của Thành Đoàn… cho các tập thể, các nhân trong lực lượng do đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam; nhiệm vụ cải tạo xây dựng thành phố sau chiến tranh, công tác giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, cai nghiện ma tuý cho thanh niên, hoạt động công ích, dạy nghề giải quyết việc làm cho người lao động và phát triển sản xuất kinh doanh góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị của thành phố.
Lực lượng TNXP xây dựng kinh tế Nghệ An: Từ Tổng đội TNXP xây dựng kinh tế thành lập năm 1986, đến nay tỉnh Nghệ An đã có 10 Tổng đội TNXP xây dựng kinh tế và 01 Trung tâm Giáo dục dạy nghề và giải quyết việc làm thanh niên. Lực lượng TNXP xây dựng kinh tế Nghệ An do Tỉnh đoàn Nghệ An quản lý chỉ đạo có nhiệm vụ xung kích xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội - Khu kinh tế TNXP phục vụ chương trình phát triển kinh tế - xã hội và tham gia bảo vệ an ninh quốc phòng Miền tây tỉnh Nghệ An. Hiện nay Lực lượng TNXP - XDKT Nghệ An quản lý gần 40 ngàn ha đất, 1.400 hộ đội viên với 2.547 lao động. Bằng chương trình đầu tư áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất hàng hoá, 10 khu kinh tế TNXP đã và đang trở thành 10 mô hình kinh tế - xã hội tại vùng xung yếu Miền tây Nghệ An; đời sống, thu nhập, công tác giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao của đội viên ngày càng ổn định và phát triển; là hình mẫu và làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc vùng cao. Lực lượng TNXP xây dựng kinh tế Nghệ An đã được Nhà nước tặng thưởng 01 Huân chương Lao động hạng Nhất, 02 Huân chương Lao động hạng Hai, 04 Huân chương Lao động hạng Ba, 05 Bằng khen Thủ tướng Chính phủ và nhiều hình thức khen thưởng khác của Bộ ngành Trung ương, cấp uỷ, chính quyền, các ngành địa phương.
6. Lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước trao tặng các phần thưởng và danh hiệu cao quý:
- Huân chương Sao vàng, năm 2010
- Huân chương Độc lập hạng Nhất, năm 1978
- Huân chương Hồ Chí Minh, năm 1997
- Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, năm 1997
- 43 tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Anh hùng Lao động.
- 40 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động.
- Nhiều tập thể, cán bộ, chiến sĩ TNXP được tặng thưởng Huân chương, Huy chương và các danh hiệu thi đua cao quý khác của Đảng và Nhà nước.
- Trong 70 mươi năm qua, đã có trên 65 vạn nam nữ TNXP1 phục vụ chiến đấu, trực tiếp chiến đấu, lao động sáng tạo với tinh thần dũng cảm, hy sinh, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới có trên 38 vạn nam nữ TNXP làm nhiệm vụ trên các chiến trường, trong đó đã có 6.735 người đã hy sinh (6.460 liệt sĩ), 40.451 người bị thương (36.153 thương binh), trên 14.000 người bị nhiễm chất độc dacam/diôxin.
- Hàng vạn TNXP được cử đi đào tạo tại các Trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Công nhân kỹ thuật ở trong và ngoài nước, số còn lại nhận nhiệm vụ trong các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, công trường, hoặc trở về địa phương làm ăn sinh sống xây dựng quê hương. Nhiều cựu TNXP đã thành đạt trên các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đã giữ vững và phát huy truyền thống phẩm chất TNXP, tiếp tục đóng góp công sức trí tuệ, kinh nghiệm vào công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tại Lễ kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống Lực lượng thanh niên xung phong - 15/7/1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận định về lịch sử, chiến công hào hùng của Lực lượng TNXP trong các thời kỳ cách mạng:
“Ra đời trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tư tưởng lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò và tính chất của TNXP là những người trẻ tuổi đi đầu, sẵn sàng vượt qua mọi gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân được thể hiện rõ rệt trong mọi nhiệm vụ được giao. Không phải chỉ có sự gan dạ, tinh thần lao động bền bỉ mà còn phải nói đến những sáng kiến, những suy nghĩ táo bạo và lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc đã giúp cho TNXP lập nên những kỳ tích, xứng đáng là lực lượng mũi nhọn trên các trận tuyến khó khăn nhất của đất nước suốt 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện được khí phách và tinh hoa của dân tộc Việt Nam”.
II. HỘI CỰU TNXP VIỆT NAM KẾ TỤC VÀ PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG TNXP TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC.
Đáp ứng nguyện vọng tha thiết của hàng chục vạn cựu TNXP trong cả nước, đồng thời đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết chế độ chính sách đối với cựu TNXP. Được Chính phủ cho phép, ngày 19 - 12 - 2004 đã tổ chức Đại hội thành lập Hội cựu TNXP Việt Nam, đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng TNXP. Trong 15 năm qua, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước, Hội cựu TNXP đã tập hợp đoàn kết hội viên phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ do 3 kỳ Đại hội đề ra, đạt được những kết quả thiết thực; vị trí, vai trò vị thế của tổ chức Hội cựu TNXP đã được khẳng định và ngày một nâng cao trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Nhìn lại 15 năm qua (2004 - 2019), mặc dù phải hoạt động trong điều kiện có nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, Hội Cựu TNXP Việt Nam và Hội cựu TNXP ở địa phương đã lựa chọn được hướng đi đúng đắn, sáng tạo ra những phương thức hoạt động phù hợp, phấn đấu nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ công tác và đã đạt được những thành quả quan trọng:
1. Phát huy vai trò nhân chứng lịch sử, chủ động đề xuất, tham mưu với Đảng và Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang và Anh hùng Lao động cho 35 tập thể, 35 cá nhân TNXP1; tặng thưởng Huân chương sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Lực lượng TNXP và đang đề nghị tặng thưởng “Huy chương TNXP vẻ vang” cho TNXP. Qua đó, tiếp tục khẳng định những cống hiến to lớn của lực lượng TNXP trong các thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp xây dựng các cơ chế, chính sách; tham gia cùng các cơ quan chức năng thực hiện việc giải quyết chế độ, chính sách đối với cựu TNXP nhanh hơn, đảm bảo chính xác, đúng đối tượng, ngăn chặn tình trạng làm giả hồ sơ, vi phạm pháp luật, góp phần tích cực thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người có công với cách mạng2.
2. Thực hiện tốt phương châm nơi nào có cựu TNXP, nơi đó có hoạt động hội. Trong 15 năm, Hội Cựu TNXP đã phát triển không ngừng, được thành lập và hoạt động trên 7.433 xã, phường, thị trấn; 624 huyện, quận, thị, 63 tỉnh, thành phố, tập hợp được gần 75% cựu TNXP tham gia sinh hoạt hội. Đồng thời đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có năng lực hoạt động thực tiễn, nhiệt huyết, gắn bó với đồng đội, đảm bảo cho hoạt động của Hội ngày càng có chất lượng, hiệu quả và nâng cao uy tín của tổ chức Hội đối với xã hội, quốc phòng, an ninh.
3. Hội Cựu TNXP đã không ngừng đẩy mạnh phong trào “Vì Nghĩa tình đồng đội”, động viên cựu TNXP giúp nhau làm kinh tế xóa nghèo bền vững; tích cực vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ, giúp đỡ cựu TNXP khó khăn có cuộc sống ổn định, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội. Phong trào “Vì nghĩa tình đồng đội” làm sống lại những tình cảm thiêng liêng, thắm tình đồng đội trong mỗi cán bộ, hội viên; đã trở thành hoạt động sâu rộng, nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của tổ chức Hội các cấp.
4. Cuộc vận động “Cựu TNXP nguyện nêu gương sáng học tập, làm theo lời dạy và tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã được Hội cựu TNXP triển khai dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực. Qua đó, đã định hướng tư tưởng, hành động của cán bộ, hội viên, các tổ chức Hội trong các mặt công tác và phong trào thi đua yêu nước do Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cấp ủy, chính quyền địa phương phát động, góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
5. Công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lịch sử truyền thống cách mạng, truyền thống TNXP và kết quả hoạt động của Hội được tổ chức thường xuyên, gắn với các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước, lực lượng TNXP và trên Trang thông tin điện tử (Website), Bản tin Cựu TNXP của Hội. Qua đó, cán bộ, hội viên đã củng cố niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, động viên nhau phát huy truyền thống TNXP, tích cực tham gia công tác Hội, phong trào thi đua yêu nước, công tác xã hội và giáo dục thế hệ trẻ.
6. Trung ương Hội đã tổng kết 10 năm Cuộc vận động “Cựu TNXP nêu gương sáng học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Hội thảo Khoa học, thực tiễn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về trường học lớn TNXP”; xuất bản hàng chục bộ sách, trong đó có 3 tập sách “Thanh niên xung phong Việt Nam Anh hùng”; xây dựng Đề án “Thực trạng và đề xuất xây dựng, tôn tạo các di tích lịch sử TNXP” và Đề án về “Công tác tổ chức, cán bộ Hội Cựu TNXP Việt Nam giai đoạn 2019 - 2024”…Đó là những chuyên đề nghiên cứu có giá trị về lịch sử, khoa học và thực tiễn, ý nghĩa chính trị sâu sắc; định hướng cho các mặt công tác của Hội; đem lại hiệu ứng tích cực nâng cao nhận thức, hiểu biết về lịch sử truyền thống của Lực lượng TNXP và vai trò vị trí của tổ chức Hội Cựu TNXP trong xã hội.
7. Hội Cựu TNXP đã tăng cường mở rộng mối quan hệ, gắn bó chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân tiêu biểu, từ đó có được sự ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ công tác. Đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thông qua thực hiện các chương trình phối hợp, đã giúp cho Hội Cựu TNXP ở địa phương thực hiện tốt công tác xây dựng phát tiển tổ chức và tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ.
8. Hội Cựu TNXP đã thực hiện tốt nhiệm vụ, vai trò thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện các Cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Qua đó góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh ở cơ sở; nâng cao, khẳng định được vị thế của Hội Cựu TNXP, đáp ứng được niềm tin của Đảng, Chính quyền các cấp và toàn thể xã hội.
Hội Cựu TNXP Việt Nam và Hội Cựu TNXP ở địa phương đã thể hiện rõ địa vị pháp lý, vai trò nhân chứng lịch sử theo quy định của pháp luật; đồng thời thể hiện được vai trò vị trí trong xã hội bằng những kết quả hoạt động thực tiễn được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và cấp ủy, chính quyền địa phương ghi nhận, đánh giá cao và khen thưởng: Hội Cựu TNXP Việt Nam được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhì, Mặt trận Tổ quốc Việt nam tặng Cờ thi đua đơn vị xuất sắc năm 2018; đã có 06 tỉnh, thành Hội và 01 quận Hội được tặng thưởng Huân chương Lao động; 09 tỉnh, thành Hội và một số Hội cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; hàng trăm tổ chức Hội các cấp ở địa phương và cán bộ, hội viên được Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc địa phương khen thưởng.
Kỷ niệm ngày truyền thống TNXP Việt Nam là một dịp để cán bộ, hội viên cựu TNXP ôn lại lịch sử truyền thống hào hùng của lực lượng TNXP, để sống lại những kỷ niệm sâu sắc của một thời tuổi trẻ rèn luyện và cống hiến, để phấn khởi tự hào phát huy truyền thống TNXP trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để thiết thực kỷ niệm ngày truyền thống TNXP, mỗi cựu TNXP, mỗi tổ chức Hội cần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước bằng những việc làm thiết thực, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ công tác Hội của Đại hội IV Hội cựu TNXP Việt Nam đề ra:
1. Xây dựng Hội vững mạnh toàn diện; nâng cao chất lượng cán bộ hội, hội viên và nội dung sinh hoạt hội; tham gia thực hiện tốt công tác xác nhận phiên hiệu đơn vị TNXP và phát triển hội viên theo quy định của Điều lệ Hội và pháp luật.
2. Tham gia giải quyết cơ bản chế độ, chính sách đối với TNXP. Trong đó, tập trung đề xuất cơ chế giải quyết vướng mắc trong thực hiện chế độ, chính sách đối với TNXP không còn giấy tờ gốc còn tồn đọng, TNXP hy sinh trên các công trường mở đường chiến lược thời kỳ 1954 - 1957. Nghiên cứu, đề xuất chế độ, chính sách đối với TNXP khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng kinh tế sau 1975; triển khai và thực hiện trao tặng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” sau khi cấp có thẩm quyền phê duyệt.
3. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Cựu TNXP nêu gương sáng học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; phong trào “Cựu TNXP làm kinh tế giỏi - vì nghĩa tình đồng đội” và phong trào “Vì Nghĩa tình đồng đội - mỗi hội viên làm nhiều việc tốt”.
4. Nâng cao chất lượng công tác truyên truyền về chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, truyền thống cách mạng, truyền thống lực lượng TNXP; tích cực tham gia thực hiện công tác giáo dục thế hệ trẻ.
5. Phát huy truyền thống lực lượng TNXP, vai trò tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tích cực tham gia có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, phòng chống tham nhũng, lãng phí do các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc phát động, nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương và nâng cao vai trò, uy tín của tổ chức Hội trong xã hội.
III. NHỮNG ĐỊA CHỈ ĐỎ
1. Đường Hạnh phúc Hà Giang - Đồng Văn (Tượng đài TNXP trên đỉnh Ma Pí Lèng và Nghĩa trang liệt sĩ Yên Minh, TP Hà Giang, Hà Giang)
2. Khu Di tích lịch sử Nà Tu - Bác Hồ thăm Liên phân đội 312 và tặng 4 câu thơ (Cẩm Giàng, Bạch Thông, Bắc Cạn)
3. Khu Di tích lịch sử Thanh niên Việt Nam - Nơi thành lập Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên (Đồi Gò Thờ, Yên Lãng, Đại Từ, Thái Nguyên)
4. Khu Di tích lịch sử tưởng niệm 60 liệt sĩ TNXP C915 - N91 (Lưu Xá, TP Thái Nguyên, Thái Nguyên)
5. Khu Di tích lịch sử TNXP chống Pháp Ngã ba Cò Nòi, (Cò Nòi, Mai Châu, Sơn La)
6. Đường Lai - Châu Ma Lù Thàng - Nghĩa trang Liệt sĩ TNXP Đội 34 - 40 (Chăn Nưa, Sìn Hồ, Lai Châu)
7. Nhà bia Tưởng niệm liệt sĩ TNXP C895 - N89 (Ga Núi Gôi, Ý Yên, Nam Định)
8. Tượng đài TNXP chiến thắng Hàm Rồng, (Đông Hưng, Đông Sơn Thanh Hóa)
9. Khu Di tích lịch sử Truông Bồn, (Mỹ Sơn, Đô Lương, Nghệ An)
10. Khu Di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc - Miếu thờ 23 liệt sĩ TNXP Phú Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh).
11. Đường 20 Quyết thắng - Hang Tám cô - Nghĩa trang Liệt sĩ TNXP Thọ Lộc (Bố Trạch) - Tượng đài TNXP chống Mỹ cứu nước Xuân Sơn - Nghĩa trang Liệt sĩ TNXP Tân Ấp (Tuyên Hóa) - Nghĩa trang Liệt sĩ TNXP Vạn Ninh tỉnh Quảng Bình
12. Khu Di tích lịch sử TNXP Khu V (Nước Oa, Trà My, Quảng Nam)
13. Tượng đài - Bia ghi danh 50 liệt sĩ TNXP Tổng đội 204 (Đak Pơ, Gia Lai)
14. Đền tưởng niệm Liệt sĩ TNXP H50 (Đa Kai, Đức Linh, Bình Thuận)
15. Nhà bia tưởng niệm Liệt sĩ TNXP C1265 (suối Xà Môn, Kim Long, Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu)
16. Khu tưởng niệm Liệt sĩ TNXP Giải phóng Miền Nam (Đồi 82,Tân Biên, Tây Ninh)
17. Khu tưởng niệm Liệt sĩ TNXP TP Hồ Chí Minh (Long Phước, Bến Cầu, Tây ninh)
18. Đền thờ - Bia tưởng niệm 95 Liệt sĩ TNXP Giải phóng Miền Nam (Thanh An, Dầu Tiếng, Bình Dương)
19. Nhà thờ Liệt sĩ anh hùng TNXP Lê Trung Kiên (Lương Quới, Giồng Trôm, Bến Tre)
20. Bia tưởng niệm Liệt sĩ TNXP Đường 1C (Vĩnh Điều, Giang Thành, Kiên Giang)
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành một địa chỉ đỏ, mảnh đất thiêng liêng, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngã ba Đồng Lộc đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca về quyết tâm sắt đá tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì độc lập tự do thống nhất Tổ quốc, vì hoà bình.
Ngã ba Đồng Lộc thuộc địa phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nằm trên đường Hồ Chí Minh qua dãy Trường Sơn, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh.
Vào những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải đi qua nơi đây. Ngã ba Đồng Lộc có diện tích khoảng 50ha nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên là đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo. Do địa hình như vậy nên khi bom đạn của địch trút xuống phía nào, đất đá cũng lăn xuống đường cản trở giao thông.
Chính vì sự hiểm yếu và quan trọng đó mà không quân Mỹ liên tục đánh phá Đồng Lộc nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông của quân dân ta hướng về chiến trường miền Nam. Nơi này đã đã được mệnh danh là “tọa độ chết”. Người ta đã thống kê rằng, mỗi mét vuông đất nơi đây đã gánh 3 quả bom tấn. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968, không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.
Để giữ vững huyết mạch giao thông, quân dân ta cũng huy động tối đa mọi nguồn lực bảo vệ Ngã ba Đồng Lộc, lúc cao điểm ở nơi này có tới 1,6 vạn người - chủ yếu là bộ đội pháo binh và lực lượng thanh niên xung phong phá bom, mở đường.
Tiểu đội 4, thuộc Đại đội 552, tổng đội thanh niên xung phong 55 Hà Tĩnh làm việc thường trực tại ngã ba Đồng Lộc. Trưa ngày 24/7/1968, Tiểu đội 4 gồm 10 cô gái trẻ, do Võ Thị Tần-24 tuổi, làm tiểu đội trưởng được lệnh san lấp hố bom ở khu vực địch vừa thả bom để nhanh chóng thông đường cho xe qua.
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến hiện trường gấp rút triển khai công việc với niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe đi qua. Họ làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói và đã ba lần các cô bị vùi lấp, nhưng đều rũ đất đá đứng dậy tiếp tục làm việc. Đến 16 giờ 30 phút, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc. Một quả bom rơi trúng vào đội hình 10 cô gái. Một, hai phút, rồi năm phút trôi qua. Mặt đất mù mịt. Cả trận địa lặng đi rồi tiếng khóc vỡ òa. Các cô đã hy sinh.
Khu tượng đài Chiến thắng Đồng Lộc. Ảnh: Thanh Hà-TTXVN
10 cô gái Đồng Lộc kiên cường dũng cảm: Võ Thị Tần (24 tuổi), Hồ Thị Cúc (24 tuổi), Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi (20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (19 tuổi), Trần Thị Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi) đã ngã xuống khi tuổi còn quá trẻ.
Mười đóa hoa ấy vừa độ mười tám, đôi mươi - cái tuổi đẹp nhất của tuổi trẻ, của đời người - đã mãi mãi ra đi, mang trong tim bao nhiệt huyết, khát vọng của ước mơ, hoài bão. Mười đóa hoa ấy đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, đã kiên cường chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp của dân tộc.
Những chiến công của các chị đã đi vào lịch sử, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tuổi trẻ Việt Nam. Máu của các chị đã góp phần tô thắm màu cờ của Tổ Quốc.
Chiến tranh đã lùi vào quá khứ. Mảnh đất Đồng Lộc năm xưa mang trên mình những hố bom chi chít, giờ đã thành địa chỉ xanh chứa đựng những huyền thoại cao cả, linh thiêng. Đồng Lộc hôm nay đã đổi thay, những con đường bạt ngàn nắng gió, những đồng ruộng thơm mùi lúa thẳng cánh cò bay. Gió đại ngàn vẫn thổi, tiếng chuông ngân vang một góc trời. Nơi đó, 10 cô gái đã hy sinh cho công cuộc thống nhất đất nước.
Tuyến đường vào Nam những năm đó, giờ đã thênh thang rộng mở. Cả một vùng Ngã ba Đồng Lộc đã xanh tươi. Từ cầu Sông Nghẽn đi lên vùng cung đường ngã ba là cả một vùng lúa Đại Lộc, Tiến Lộc, Thanh Lộc, Đồng Lộc… xanh mướt.
Để có được những cánh đồng trải đầy màu xanh của ngày hôm nay, các chiến sĩ đã phải đánh đổi bằng màu đỏ của máu, bằng cả tuổi thanh xuân. Tổ quốc mãi ghi công những người con gái Thanh niên xung phong!
Trung tâm Thông tin Tư liệu/TTXVN
Nguồn gốc hình thành ngày Thương binh liệt sĩ
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn bọn xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến có nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.
Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “Nhân ái, thủy chung” của dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ, đặc biệt là những người bị thương hoặcđã anh dũng hy sinh.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Chiều ngày 28/5/1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Tổng Hội tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương.
Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét mà Bác đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên.
Các đồng chí thương binh, gia đình nhiều liệt sĩ gặp nhiều khó khăn thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Năm 1946, giữa bộn bề công việc của những ngày tháng cam go chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giành nhiều tình cảm cho các thương binh, liệt sỹ. Người đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi với một tấm lòng thành kính.
“Tôi muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh của mình cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.
Trước yêu cầu thực tế đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Ngày 27/7 chính thức được chọn là ngày thương binh liệt sỹ
Để chủ động công tác này trong cả nước, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh (thuộc Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam) được thành lập. Đầu tháng 7/1947 Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Thái Nguyên). Nội dung cuộc họp là thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác Thương binh liệt sĩ.
Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc. Ngày 27/7/1947, một cuộc mít tinh quan trọng đã được diễn ra tại Thái Nguyên (có 2000 người tham gia). Tại đây Ban tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Hồ Chủ Tịch. Trong thư Người viết:
“... Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu ...”.
“... Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
“... Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào".
“... Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ".
“... Tôi cũng rất mong muốn đồng bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần...”.
Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Từ năm 1947, ngày Thương binh liệt sĩ được tổ chức thường kỳ hàng năm. Năm nào vào dịp này, Hồ Chủ Tịch cũng có thư và quà gửi anh chị em thương binh và các gia đình liệt sĩ.
Tháng 7/1954 sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đảng và Nhà nước ta càng đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề chiến sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh. Từ năm 1955, ngày 27/7 ngày Thương binh được đổi thành ngày Thương binh liệt sĩ.
Trong suốt 24 năm trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Bác đã giành sự quan tâm đặc biệt đến các thương binh, liệt sỹ. Là người lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đã thấu hiểu và đánh giá cao những hy sinh, mất mát của các thương binh, liệt sỹ và thân nhân gia đình của họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong lời dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“... Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực, cánh sinh”.
“... Đối với các Liệt sỹ, mỗi địa phương cần phải xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm để ghi công sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”.
“... Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sỹ, mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Làm tốt công tác Thương binh Liệt sĩ và chính sách đối với những người có công với cách mạng chính là phát huy đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", đền ơn đáp nghĩa của dân tộc; là thể hiện ý thức, trách nhiệm, lòng biết ơn, khơi dậy tinh thần yêu đất nước, yêu dân tộc Việt Nam; từ đó khơi dậy niềm tự hào về truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc; giữ vững niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc./. Nguồn:dbndhanoi.gov.vn
1. Ngày nước ta đổi tên Quốc hiệu từ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (02/7/1976)
Với thắng lợi rực rỡ của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được triệu tập vào tháng 6/1976.
Thủ đô Hà Nội, Hội trường Ba đình cờ hoa rực rỡ, tưng bừng chào đón những vị đại biểu của Nhân dân trong cả nước. 492 đại biểu của 38 tỉnh và thành phố trên khắp mọi miền của đất nước về dự họp đã thật sự trở thành hình ảnh tiêu biểu, linh động của toàn dân Việt Nam, sum họp một nhà.
Trong buổi sáng ngày 25/6, Quốc hội đã nghe đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đọc Báo cáo chính trị quan trọng “Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa”. Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã trình bày trước cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam thống nhất và những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, phương châm và phương thức công tác của Nhà nước nhằm thực hiện nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; phương hướng và cách tiến hành xây dựng Hiến pháp mới của nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong khi chưa có Hiến pháp mới.
Trong những phiên họp cuối cùng, Quốc hội đã thông qua những nghị quyết và văn kiện hết sức quan trọng của nước Việt Nam Độc lập, Thống nhất và Xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô, quốc ca với toàn văn như sau:
Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi thảo luận đề nghị của Đoàn Chủ tịch kỳ họp Quốc hội, quyết nghị:
1. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa lấy tên là nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam.
2. Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
3. Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
4. Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
5. Quốc ca nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài “Tiến quân ca”
Với niềm phấn khởi và tin tưởng dạt dào, toàn thể Quốc hội đã hoàn toàn nhất trí thông qua Nghị quyết, hoàn toàn nhất trí đặt tên nước ta là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp đó Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết quan trọng khác.
Ngày 02/7/1976, nước Việt Nam mang tên mới: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày bắt đầu chương mới huy hoàng của lịch sử Việt Nam. Từ Văn Lang, Âu Lạc, Vạn xuân và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường lịch sử đầy chông gai nhưng cũng đầy khí phách anh hùng, chiến thắng vẻ vang.
Chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm tròn sứ mệnh lịch sử quang vinh.
Ngày nay nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời với nhiệm vụ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta, dân tộc ta có đầy đủ mọi khả năng và nghị lực để thực hiện nhiệm vụ vĩ đại đó, giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội, như tuyến bố của Quốc hội đã khẳng định.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
2. Ý nghĩa Ngày Dân số thế giới 11/7
Ngày 11-7-1987, lúc 6h35’ (giờ Anh), cậu bé người Nam Tư Matej Gašpar ra đời tại thành phố Zagreb (nay là thủ đô của Croatia) và đây cũng là công dân thứ 5 tỷ của Thế giới.
Đứng trước sự gia tăng dân số quá nhanh, vấn đề dân số làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng dân số, môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) với tầm nhìn chiến lược về dân số đã tổ chức Hội nghị Quốc tế về dân số ở thủ đô Hà Lan vào tháng 11 năm 1989, tại diễn đàn Dân số thế giới này đã quyết định lấy ngày sinh của bé Matej Gašpar là ngày 11/7 làm "Ngày Dân số thế giới" nhằm nhắc nhở các quốc gia và mỗi người sống trên trái đất về nguy cơ dân số tǎng quá nhanh, con người không đủ điều kiện sống với đầy đủ quyền chính đáng như: quyền học hành, có việc làm, đủ dinh dưỡng, nhà ở, bảo vệ sức khoẻ… Trên cơ sở đó, mỗi quốc gia, mỗi người tự liên hệ với dân số của địa phương mình để có suy nghĩ và hành động đúng trong hành vi dân số mà tìm mọi biện pháp tích cực, góp phần giảm sự gia tăng dân số, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng dân trí và cải tạo môi trường sinh thái.
Hằng năm, nhân Ngày Dân số Thế giới, Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc lựa chọn một chủ đề cấp thiết mang tính toàn cầu để kêu gọi sự quan tâm chú ý của toàn nhân loại. Nhiều năm trước, Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) cũng đã kêu gọi tiếp cận phổ cập tới sức khỏe sinh sản vào năm 2015 bao gồm: kế hoạch hóa gia đình tự nguyện, hỗ trợ sinh nở và dự phòng các nhiễm khuẩn qua đường tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS.
Ở nước ta, nhân kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới, nhằm nhắc nhở các cấp, các ngành, các đoàn thể và quần chúng nhân dân có những hoạt động thiết thực ra sức thực hiện các giải pháp và mục tiêu về dân số, không ngừng góp phần cùng Thế giới hạn chế sự gia tăng dân số góp phần làm cho gia đình hạnh phúc và dân giàu, nước mạnh.
Dân số hiện tại của Việt Nam là 97.272.096 người, theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc.
Dân số Việt Nam hiện chiếm 1,25% dân số thế giới.
Việt Nam đang đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.
Mật độ dân số của Việt Nam là 314 người/km2.
Với tổng diện tích đất là 310.060 km2.
35,92% dân số sống ở thành thị (34.658.961 người vào năm 2019).
Độ tuổi trung bình ở Việt Nam là 32,5 tuổi.
Nguồn: https://danso.org/viet-nam/
3. Ngày Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN (28/7/1995 - 28/7/2020)
Năm 1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam Á (TAC) và trở thành quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hằng năm. Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN.
Tháng 7-1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sáng lập của Diễn đàn này.
Ngày 28-7-1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tại Bru-nây Đarút-xa-lem, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ bảy của tổ chức này.
Kể từ đó đến nay tròn 25 năm (28/7/1995 - 28/7/2020), Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong việc duy trì đoàn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên cũng như giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần không nhỏ vào sự phát triển và thành công của ASEAN ngày hôm nay.
Nguồn: nhandan.com.vn
KỸ NĂNG GHI NHỚ
Kỹ năng ghi nhớ là một kỹ năng quan trọng và cần thiết nhất trong quá trình học tập và rèn luyện. Nó cũng được đánh giá làm một trong những kỹ năng phỏng vấn cần thiết vì nó sẽ đánh giá được hiệu quả làm việc của bạn. Vậy làm thế nào để cải thiện kỹ năng ghi nhớ.
Có một cuốn sách "Khoa học về cách học hỏi" đã viết: "Chúng ta cần học tập và ghi nhớ một cách liên tục mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta. Để làm việc tốt hơn người khác, bạn cần phải làm chủ được những kỹ năng làm việc của mình. Và nếu bạn là người biết học hỏi đúng cách, bạn sẽ có được nhiều thuận lợi trong bước đường tiến thân". Thật đúng như vậy, để tiếp thu được kiến thức tốt thì chúng ta cần phải có kỹ năng ghi nhớ kết hợp cùng với kỹ năng phân tích để chọn lọc ra những thông tin bổ ích giúp làm rõ các vấn đề và ghi nhớ nó một cách dễ dàng hơn. Dưới đây là một số thủ thuật giúp bạn rèn luyện trí nhớ dài hạn, thông minh hơn.
Khôi phục lại ký ức
Khi bạn phải cố gắng nhớ lại một thứ gì đó thì tức là bạn đang khôi phục lại những ký ức của mình. Bạn có thể dùng những tấm thẻ ghi chú ghi lại những gì đã từng xuất hiện trong đầu mình hoặc những gì bạn hay quên và dán ở nơi bạn có thể dễ quan sát nhất để não bạn ghi nhớ mọi thứ tốt hơn. Hay các bạn cũng có thể tìm hiểu thêm về kỹ năng quan sát để ứng dụng cho nhu cầu công việc được dễ dàng hơn.
Khôi phục lại ký ức là bí quyết để cải thiện kỹ năng ghi nhớ vì nó dựa trên sự phối hợp giữa sức mạnh của các nơ ron thần kinh với các ý tưởng sẵn có trong trí não con người. Các nhà tâm lý học gọi đó là "tác dụng thử nghiệm" bởi vì khi bạn cố gắng nhớ lại một phần thông tin thì trong tương lai, bạn sẽ nhớ điều đó dễ dàng hơn.
Liên kết ý tưởng mới với những gì bạn đã biết
Khi bạn cố gắng diễn tả một ý tưởng mới theo ý hiểu của mình thì có nghĩa là bạn đang giải thích. Bạn càng giải thích được những gì mình mới học được và liên kết chúng với những gì bạn biết trước đó thì bạn sẽ càng cảm thấy mình hiểu nhanh hơn và nhớ được lâu hơn. Kỹ năng ghi nhớ của bạn sẽ theo đó mà lớn dần.
Ví dụ, bạn đang học vật lý về quá trình truyền nhiệt thì hãy cố gắng kết nối khái niệm này với những kinh nghiệm thực tế của bạn bằng cách tưởng tượng xem làm thế nào để một cốc cà-phê nóng có thể truyền nhiệt đến tay của bạn.
Lồng ghép với các ví dụ cụ thể
Khi bạn phải học nhiều thứ cùng lúc, thì cách để bạn cải thiện kỹ năng ghi nhớ là bạn nên lồng ghép chúng với các ví dụ cụ thể. Việc này rất hữu ích vì trong cuộc sống chúng ta cần nhận biết được vấn đề trước khi tìm hướng giải quyết cho nó.
Trả lời câu hỏi trước khi xem đáp án
Khi bạn cố gắng tự câu trả lời trước khi biết đáp án có nghĩa là bạn đang tự thân vận động. So với việc bạn lội xuống nước để khám phá khi chưa biết dưới đó có gì thì việc tự trả lời câu hỏi cũng giống như vậy. Nó giúp bạn có thể học hỏi và cải thiện kỹ năng ghi nhớ của mình. Bạn sẽ nhớ được lâu hơn so với việc ai đó dạy cho bạn.
Đánh giá những gì đã qua
Khi bạn dành ra một vài phút để xem xét những gì đã xảy ra tức là bạn đang đánh giá. Bạn có thể tự hỏi mình một vài câu hỏi như Bạn đã làm tốt những gì? Bạn cần cải thiện ở đâu? Sự việc đó nhắc nhở bạn điều gì? Nghiên cứu cho thấy việc viết ra các đánh giá sau khi hoàn thành một công việc gì đó sẽ giúp bạn tăng cường kỹ năng ghi nhớ hơn là việc bạn chỉ suy nghĩ trong đầu.
Nhớ những gì bạn chưa biết
Khi ai đó nói rằng bạn chưa hiểu vấn đề thì bạn nên ghi nhớ. Hãy học cách lấy những yếu tố khách quan làm lý do để xoá đi những ảo tưởng của bản thân và thay đổi ý kiến cá nhân theo chiều hướng thực tế hơn. Điều này là cần thiết vì tất cả chúng ta đều bị ảo tưởng về nhận thức của mình, chúng ta nghĩ là mình hiểu vấn đề nhưng thực ra chẳng hiểu gì. Vì vậy, hãy cố gắng lắng nghe những nhận xét của người xung quanh để biết chúng ta đang “ảo tưởng” những gì.
Cùng với kỹ năng ghi nhớ, bạn đọc cũng không nên xem nhẹ kỹ năng học và tự học. Khi phát huy được hết các kỹ năng này thì việc trau dồi cho bản thân những kiến thức mới mẻ sẽ trở nên đơn giản và nhanh chóng hơn.
BỐN BÀI HỌC VỀ SỰ SÁNG TẠO
Sáng tạo bắt nguồn từ những trải nghiệm đời thường nhiều hơn bạn nghĩ, bao gồm cả việc từ bỏ. Cách tốt nhất để học bất cứ một điều gì là qua những câu chuyện. Vì thế tôi muốn kể cho các bạn nghe về công việc, thư giãn và về 4 khía cạnh của cuộc sống mà chúng ta cần trân trọng để phát triển sự sáng tạo của chúng ta.
Khởi nguồn của sự sáng tạo bắt nguồn từ việc quan sát những thứ xung quanh chúng ta - trải nghiệm.
Điều đầu tiên là thứ mà chúng ta thường nghĩ: “Ôi việc này thật dễ dàng” nhưng càng ngày nó càng khó khăn hơn, đó là chú ý đến thế giới quanh ta. Rất nhiều nghệ sĩ nói về việc cần phải cởi mở, phải trân trọng trải nghiệm và thật khó để làm thế khi thứ đồ phát sáng hình chữ nhật trong túi áo đang chiếm hết sự chú ý của bạn.
Người phụ nữ cũng là một nhà làm phim: Mira Nair kể về việc bà trưởng thành trong một thành phố Ấn Độ, Bhubaneswar: "Điều chủ yếu tạo cảm hứng, sự sáng tạo của tôi, dẫn tôi đến con đường này kiến tôi trở thành một nhà làm phim, chính là những gánh hát rong thường đi qua thành phố. Tôi được xem những trận chiến tuyệt vời giữa cái thiện và cái ác, diễn ra bởi hai người trong sân trường không có đạo cụ gì nhưng bạn biết đấy, họ điều rất đam mê và điều đó thật tuyệt vời. Họ biểu diễn những câu chuyện từ 2 cuổn sách thánh, những tác phẩm vĩ đại khởi nguồn của mọi thứ ở Ấn Độ. Bà chỉ là một trong hàng ngàn người đã xem gánh xiếc đó nhưng bà đã đón nhận thứ sáng tạo lóe lên trong tâm trí lúc đó và dẫn đắt bà trên con đường trở thành một nhà làm phim. Mira Nair đã đoạt giải Honorary Maverick Award tại Liên hoan phim Woodstock tổ chức tại Mỹ.
Vì vậy việc cởi mở với những trải nghiệm có thể thay đổi bạn là điều đầu tiên chúng ta cần nắm bắt.
Khó khăn - sáng tạo bắt nguồn từ những thứ tưởng chừng như không đơn giản.
Giới nghệ sĩ từng nói về việc những tác phẩm tuyệt vời nhất của họ, những sáng tạo thường đến từ những khó khăn của cuộc sống. Tiểu thuyết gia Richard Ford nói về chuyện anh tiếp tục đấu tranh với một thách thức thời thơ ấu cho tới tận hôm nay. Anh mắc chứng khó đọc nặng: “Tôi đọc học rất chậm, trải qua hết chương trình học mà chỉ đọc những thứ tối thiểu và tới bây giờ tôi không thể đọc thầm nhanh hơn đọc to là mấy. Nhưng việc mắc bệnh khó đọc đem lại nhiều lợi ích cho tôi. Cuối cùng tôi đã thích ứng bản thân với việc mình đọc chậm như thế nào, tôi bắt đầu từ từ trân trọng những đặc điểm ngôn ngữ và câu từ mà không chỉ là khía cạnh bề mặt. Trong lúc nhấn nhá từng từ ngữ, tôi bắt đầu cảm nhận những tính chất khác nhau của ngôn ngữ. Chính điều này đã giúp tôi viếc nên câu chữ.” Richard Ford đã đạt giải thưởng Pulitzer (là một giải thưởng của Mỹ, trao cho nhiều lĩnh vực, trong đó quan trọng hơn cả là về báo chí và văn học. Đặc biệt về báo chí, Pulitzer được xem như một trong những giải danh giá nhất).
Vượt giới hạn tạo nên sáng tạo: Các nghệ sĩ nói rằng chống lại giới hạn của việc họ có thể làm, đôi khi lấn sân sang những việc họ không thể làm, giúp họ tập trung tìm được tiếng nói của riêng mình, giúp thế giới họ mở ra chân trời mới của sự sáng tạo.
Nhà điêu khắc Richard Sera nói về việc khi còn là một nghệ sĩ trẻ, ông từng nghĩ mình là một họa sĩ. Khi mới tốt nghiệp, ông tới Madrid và đến Prado để ngắm bức tranh của họa sĩ người Tây Ban Nha Diego Velazquez, bức tranh đó tên “Las Meninas”. “Tôi đứng đó nhìn bức tranh và tôi nhận ra Velazquez đang nhìn mình, mình là đối tượng của bức tranh. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ vẽ như thế được. Vì thế tôi quay lại, vứt bỏ hết số tranh của mình ở quê nhà và bắt đầu lên ý tưởng làm một điều gì đó khác”. Không từ bở con đường nghệ thuật của mình, ông đã chuyễn đến New York, ông đã bắt đầu suy nghĩ theo chiều hướng khác, với tư duy sáng tạo hơn, nhìn cuộc sống nhiều hơn. Kết quả là tác phẩm đầu tiên ông tạo từ cao su đang nằm trong bảo tàng nghệ thuât hiện đại. Trong nghệ thuật điêu khắc, Richard Sera đã làm được điều mà ông không thể làm được trong việc vẽ tranh: Ông biến chúng ta thành đối tượng cho nghệ thuật của ông ấy.Vậy là trải nghiệm, thử thách và giới hạn, tất cả những thứ chúng ta cần trân trọng.
Sự sáng tạo sinh ra từ những thứ chúng ta không ngờ đến - Sự mất mác.
Là thứ lâu đời nhất và thường xuyên nhất trong số trải nghiệm của con người. Để sáng tạo, chúng ta phải đứng trong khoảng không gian giữa điều chúng ta thấy trên thế giới và những điều chúng ta mong muốn, nhìn thẳng vào sự từ chối, tan vỡ, chiến tranh và vào cái chết. Đó là một không gian khó khăn để đứng bên trong.
Nhiếp ảnh gia Joel Meyerowitz, người bắt đầu sự nghiệp với hoạt động nhiếp ảnh đường phố, những bức ảnh có phong cảnh tuyệt vời. Khi chuyển đến NewYord, văn phòng của ông được đặt với góc nhìn thẳng đến Trung tâm thương mại thế giới, mỗi ngày ông điều chụp bức ảnh về tòa nhà này và thưởng thức nó. Ngày 11/9/2001 tòa nhà bị đánh xụp đúng lúc ông rời khỏi thành phố. Khi biết tin ông đã chạy một mạch tới hiện trường vụ sụp lỡ vào bàng hoàng nhận ra nét đẹp bấy lâu ông quan sát đã không còn nữa. Một thời gian sau, ông tiếp tục ngắm nhìn tòa nhà trong sự sụp đổ của nó, và nhận ra thiên nhiên và thời gian đang xóa mờ vết thương này. Chính nhờ sự tích cực, lạc quan vượt qua sự mất mác và đam mê nghệ thuật của mình mà ông đã sáng tạo ra hững bức ảnh vượt ngoài sự tưởng tượng đó.
Sự sáng tạo được tạo ra bởi bộ óc, cảm xúc của con người. Chúng ta không thể sáng tạo bằng sự gượng ép hay nhào nặng ra từ những thứ đã có. Thay vào đó, khi thực sự bạn muốn tìm ra một ý tưởng sáng tạo nào đó, hãy thử bỏ công việc sang một bên, thử đi ra ngoài, trò chuyện với bạn bè, tới một góc phố nào đó để thưởng thức phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, đọc một cuốn sách nào đó thật hay, có khi sự sáng tạo sẽ bất chợt lóe lên trong đầu bạn thì sao.